Công ty kinh doanh vật liệu xây dựng uy tín tại Hà Nội
Hôm nay: Thứ 7 Ngày 23 Tháng 11 Năm 2024
Chào mừng các bạn tới thăm kho sản phẩm Sông Đà Cao Cường, chúng tôi luôn đáp ứng tốt nhất yêu cầu của các bạn về sp: Vữa khô trộn sẵn, Keo ốp lát gạch đá, Gạch nhẹ chưng áp AAC, Bộ dụng cụ xây gạch nhẹ, Bộ dụng cụ ốp lát gạch đá, Lưới sợi thủy tinh, Tro bay, Xỉ than chống nồm ẩm, Xỉ nguyên khai, ...

Nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình phát triển Vật liệu xây không nung đến năm 2020 – Cần giải pháp đồng bộ

Ban Biên tập: Sáng ngày 4/12/2015 trong khuôn khổ Triển lãm Quốc tế ContechMining Việt Nam 2015 về Công nghệ, thiết bị, máy móc xây dựng, vật liệu xây dựng và công nghiệp mỏ tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam (VEFAC), 148 Giảng Võ, Quận Ba Đình, Hà Nội, Hội VLXDVN đã phối hợp với Công ty Cổ phần Quảng cáo và Hội chợ Quốc tế Hà Nội (HADIFA) tổ chức Hội thảo “Công nghệ, thiết bị, nguyên liệu sản xuất và sử dụng hiệu quả Vật liệu xây không nung”. Ông Lê Văn Tới - Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng đã báo cáo tham luận tại Hội thảo với nội dung: Nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình phát triển Vật liệu xây không nung đến năm 2020 – Cần giải pháp đồng bộ. Bài viết đã cập nhật tình hình sản xuất vật liệu xây không nung đến thời điểm hiện nay là nội dung được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Hội VLXDVN xin giới thiệu nội dung bài tham luận đến bạn đọc.

 

1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ VLXD cả nước năm 2015 và dự báo năm 2016.

Giai đoạn từ năm 2011, đến cuối năm 2013 kinh tế Việt Nam bị tác động lớn của suy thoái kinh tế; Chính phủ đã áp dụng chính sách tiết giảm đầu tư công, thắt chặt tín dụng. Bên cạnh đó thị trường bất dộng sản trầm lắng khiến cho việc tiêu thụ vật liệu xây dựng rơi vào tình trạng rất khó khăn, sản lượng sản xuất và nhu cầu sử dụng các loại VLXD đều giảm đáng kể. Các nhà máy đều không phát huy hết công suất, tồn kho tăng cao, nhất là đối với sản phẩm gạch ốp lát, kính xây dựng, vật liệu xây...

Bước sang năm 2004, tình hình kinh tế của cả nước đã được phục hồi, đã lấy lại được đà tăng trưởng. Năm 2015 kinh tế tiếp tục phục hồi, tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra. Kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Trong bối cảnh đó, ngành sản xuất vật liệu xây dựng cũng đã có sự cải thiện đáng kể.

Tiêu thụ sản phẩm 11 tháng năm 2015 cho thấy, hầu hết các sản phẩm vật liệu xây dựng đều tăng từ 5 đến 10% so với cùng kỳ năm trước (trừ sản phẩm gạch đất sét nung - giảm 3% so với cùng kỳ năm trước).

Sản lượng xi măng tiêu thụ cả nước đến hết tháng 11 năm 2015 đạt 65,48 triệu tấn đạt trên 91% so với kế hoạch năm, trong đó sản lượng xi măng tiêu thụ nội địa đạt 50,73 triệu tấn, bằng 109% (50,73/46,49) so với cùng kỳ năm 2014; sản lượng xuất khẩu clinker và xi măng đạt 14,75 triệu tấn bằng 81% (14,75/18,28) so với 11 tháng đầu năm 2014.

Trên cơ sở số liệu tiêu thụ 11 tháng đầu năm 2015, dự kiến tổng sản lượng xi măng, clinker tiêu thụ năm 2015 khoảng 72 triệu tấn, đạt 100% kế hoạch từ đầu năm đề ra; trong đó xi măng tiêu thụ nội địa không dưới 55,5 triệu tấn, đạt trên 103% kế hoạch năm và tăng khoảng trên 9,5% so với sản lượng xi măng tiêu thụ nội địa năm 2014; xuất khẩu khoảng 16,5 triệu tấn, đạt 85% kế hoạch năm; giảm 19% so với sản lượng clinker, xi măng xuất khẩu năm 2014. Tuy chúng ta không đạt chỉ tiêu xuất khẩu sản phẩm xi măng, nhưng bù lại sản lượng tiêu thụ trong nước năm nay tăng khá, nên tổng sản lượng tiêu thụ vẫn đạt như kế hoạch đầu năm đã đề ra; tổng công suất các nhà máy xi măng của cả nước đã được khai thác trung bình trên 90%.

Sản lượng sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây năm 2015:

Đến hết tháng 11 năm 2015 cả nước đã sản xuất và tiêu thụ tổng cộng 21 tỷ viên QTC, trong đó 16 tỷ viên QTC là gạch đất sét nung, 4,99 tỷ viên QTC là VLXKN. Trong số 4,99 tỷ viên QTC là VLXKN có 4,5 tỷ viên QTC là gạch blok bê tông (gạch xi măng cốt liệu) và 0,49 tỷ viên QTC là gạch nhẹ.

Với kết quả sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây của 11 tháng, chúng ta có thể ước sản lượng của cả năm 2015 như sau: Năm 2015, cả nước sử dụng tổng cộng  khoảng 22,85 tỷ viên QTC, trong đó 17,5 tỷ viên QTC là gạch đất sét nung (bằng 97% so với năm 2014) và 5,33 tỷ viên QTC là VLXKN (bằng 113% so với năm 2014).

Dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng năm 2016

Năm 2016 tình hình kinh tế cả nước vẫn còn nhiều khó khăn, tuy nhiên trên cơ sở những kết quả đạt được năm 2015, căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước năm 2016 được Chính phủ đệ trình và đã được Quốc hội thông qua, việc sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm vật liệu xây dựng năm 2016 của cả nước vẫn duy trì được tỷ lệ tăng trưởng như năm 2015.

2. Nâng cao  hiệu quả thực hiện Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020

Bê tông khí, gạch aac, gạch siêu nhẹ, gạch không nung, gạch sông đà, gạch nhẹ

Sự cần thiết phát triển vật liệu xây không nung

Theo dự báo nhu cầu sử dụng vật liệu xây ở nước ta vào các năm 2015, 2020 tương ứng là 23 và 33 tỷ viên quy tiêu chuẩn (QTC). Để sản xuất ra 1 tỷ viên gạch đất sét nung chúng ta phải tiêu tốn 1,5 triệu m3 đất sét (tương đương 75 ha đất khai thác ở độ sâu 2 m), 150 ngàn tấn than và thải ra môi trường 0,57 triệu tấn CO2. Như vậy, đến năm 2020, nếu sử dụng hoàn toàn gạch đất sét nung, mỗi năm chúng ta phải tiêu tốn 50 triệu m3 đất sét (tương đương 2.500 ha đất khai thác ở độ sâu 2 m), 5 triệu tấn than và thải ra môi trường 19 triệu tấn CO2 gây ô nhiễm môi trường và hiệu ứng nhà kính, ảnh hưởng đến diện tích đất canh tác.

Cũng theo quy hoạch ngành điện và luyện kim, việc phát triển các nhà máy nhiệt điện đến năm 2020, mỗi năm sẽ thải ra khoảng 30-40 triệu tấn tro xỉ gây ô nhiễm môi trường.

Để có thể khắc phục những hậu quả nói trên, chúng ta có nhiều biện pháp, nhưng biện pháp phát triển và sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung là biện pháp căn cơ.

Chính vì vậy Bộ Xây dựng đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 tại Quyết định 567/QĐ-TTg, ngày 28/4/2010.

Sau 2 năm thực hiện Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020, cùng với sự vào cuộc của các bộ, ngành, các địa phương, các doanh nghiệp sản xuất VLXKN, chúng ta đã khẳng định phát triển VLXKN thay thế cho gạch đất sét nung là giải pháp bền vững, hiệu quả và khả thi nhất có thể khắc phục những hậu quả trên. Ngày 16/4/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10 về việc tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung.

Thực tiễn và những vấn đề đặt ra cho phát triển VLXKN

Năm 2010 cả nước mới sử dụng khoảng 5-8% VLXKN trong tổng số vật liệu xây. Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định 567 ngày 28/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra các mục tiêu cơ bản:

Vào năm 2015 tỷ trọng VLXKN trong tổng số vật liệu xây là 20 - 25% và năm 2020 tỷ trọng đó là 30 - 40%; Riêng VLXKN loại nhẹ vào năm 2015 chiếm khoảng 21% và năm 2020 khoảng 25% trong tổng số VLXKN; Hàng năm sử dụng khoảng 15 - 20 triệu tấn phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện, xỉ lò cao…) để sản xuất VLXKN; Tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công, thủ công cải tiến.

Trong nỗ lực thúc đẩy việc phát triển VLXKN, Bộ Xây dựng đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm kỹ thuật, các hướng dẫn làm cơ sở cho việc sử dụng VLXKN như: Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Tiêu chuẩn cho các loại sản phẩm VLXKN; Công bố định mức dự toán liên quan đến công tác xây sử dụng VLXKN; Bộ xây dựng ban hành Chỉ dẫn kỹ thuật “Thi công và nghiệm thu tường xây bằng block bê tông khí chưng áp”; Và thông tư 09/2012/TT- BXD ngày 28/11/2012 quy định sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng. Thông tư 09 quy định cụ thể: Các công trình xây dựng từ 9 tầng trở lên không phân biệt nguồn vốn đến năm 2015 phải sử dụng tối thiểu 30% và sau năm 2015 phải sử dụng tối thiểu 50% vật liệu xây không nung loại nhẹ, trong tổng số vật liệu xây (tính theo thể tích khối xây); Đối với các công trình xây dựng được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước theo quy định hiện hành bắt buộc phải sử dụng vật liệu xây không nung theo lộ trình: Tại các đô thị loại 3 trở lên phải sử dụng 100% loại vật liệu không nung kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực. Và các khu vực còn lại phải sử dụng tối thiểu 50% vật liệu xây dựng không nung kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực đến hết năm 2015, sau năm 2015 thì phải sử dụng 100%.

Sau 5 năm thực hiện Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 và sau 3 năm thực hiện Chỉ thị số 10 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ; tuy nhiên vẫn còn những hạn chế cần khắc phục.

Theo số liệu thống kê, hiện nay trên toàn quốc đã đầu tư:

Về gạch xi măng cốt liệu có tổng công suất khoảng 5,1 tỷ viên QTC: khoảng hơn 1500 dây chuyền có công suất dưới 7 triệu viên/năm và khoảng trên 100 dây chuyền sản xuất gạch xi măng cốt liệu có công suất từ 7 đến 40 triệu viên/năm, đặc biệt có Công ty đã đầu tư tới 3 dây chuyền sản xuất với công suất thiết kế 180 triệu viên/năm;

Về gạch bê tông khí chưng áp (AAC): có 12 dự án (tổng công suất 2 triệu m3 tương đương 1,2 tỷ viên QTC/năm) đã đi vào sản xuất. Các dây chuyền đã đầu tư có công suất phổ biến từ 100.000 - 200.000 m3/năm, cá biệt có dự án đầu tư dây chuyền công suất 300.000 m3/năm.

Tổng công suất đầu tư vào 3 loại sản phẩm chính (gạch xi măng cốt liệu, gạch AAC, gạch bê tông bọt) đạt trên 6,31 tỷ viên QTC/năm. Như vậy, nói về công suất hiện có chúng ta có thể đáp ứng 28- 29% tổng số nhu cầu vật liệu xây. Về chủng loại, gạch xi măng cốt liệu đang chiếm khoảng trên 80%, gạch nhẹ mới khoảng gần 20% so với tổng số gạch xây không nung.

Về thực tế sử dụng, năm 2014 cả nước đã sử dụng tổng cộng 22 tỷ viên gạch xây QTC, trong đó có 17,7 tỷ viên QTC là gạch đất sét nung và 4,3 tỷ viên QTC là VLXKN. Với tỷ lệ xấp xỉ 20% VLXKN trong tổng số vật liệu xây được sử dụng trên toàn quốc.

Năm 2015, như phần trên đã đưa, cả nước sử dụng ước khoảng 22,85 tỷ viên QTC, trong đó 17,5 tỷ viên QTC là gạch đất sét nung và 5,33 tỷ viên QTC là VLXKN.  VLXKN chiếm tỷ trọng trên 23% trong tổng số vật liệu xây. Như vậy mục tiêu của Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 đã đạt về tỷ lệ chung (20- 25% vào năm 2015, 30 - 40% vào năm 2020). Tuy nhiên, chúng ta chưa hài lòng với tỷ lệ đó, vì đây là vấn đề bảo vệ tài nguyên không thể tái tạo và hạn chế đến mức thấp nhất ô nhiễm môi trường. Vì vậy các biện pháp nhằm tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng đất sét nung càng phải đẩy mạnh. Trong sử dụng VLXKN, tỷ lệ sử dụng VLXKN loại nhẹ đang quá thấp so với mục tiêu (chỉ khoảng trên 11% trong VLXKN), cũng là một kết quả hạn chế trong việc thực hiện Chương trình.

Những con số, những chuyển biến bước đầu về nhận thức là kết quả 5 năm thực hiện Chương trình Phát triển VLXKN, đã khẳng định phát triển VLXKN nhằm thay thế dần gạch đất sét nung là một chủ trương đúng đắn. Hầu hết các địa phương đã nhận thức được mục đích, ý nghĩa của Chương trình 567, các cấp chính quyền của các địa phương đã chủ động hơn, quyết liệt hơn trong việc xóa bỏ các lò gạch thủ công, thủ công cải tiến và lò vòng sản xuất gạch đất sét nung; tăng cường chỉ đạo khuyến khích phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN. Đặc biệt tại một số địa phương đã xóa bỏ hoàn toàn lò gạch thủ công như: Bắc Ninh, Hải Dương, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai… Các chủ đầu tư, nhà thầu, đặc biệt là các kiến trúc sư, các nhà tư vấn đã ý thức được trách nhiệm của mình trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo để tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung.

Qua 5 năm thực hiện Chương trình 567, cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Nhiều địa phương nêu khó khăn muốn trì hoãn lộ trình xóa bỏ lò gạch thủ công, thủ công cải tiến; Nhiều chủ đầu tư vẫn hướng tới vật liệu xây truyền thống; Tỷ lệ vật liệu nhẹ đang chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số vật liệu xây nói chung và VLXKN nói riêng.

Nguyên nhân:

Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng nguyên nhân cơ bản là thói quen. Thói quen từ phía người sản xuất gạch nung, thói quen từ phía người sử dụng gạch nung, thậm chí thói quen từ các cấp quản lý.

Nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng về VLXKN còn chưa đầy đủ, chưa hiểu biết nhiều về sản phẩm VLXKN nói chung và bê tông khí nói riêng.

Các nhà đầu tư sản xuất VLXKN của chúng ta còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn còn hạn chế, nên một số doanh nghiệp chỉ mua các dây chuyền công nghệ với trình độ trung bình, thiếu đồng bộ; công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt; đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa được đào tạo chu đáo; các nhà máy phải vừa sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục các mặt yếu để ổn định sản xuất.

Đối với gạch bê tông khí chưng áp (AAC), là sản phẩm tiên tiến, có nhiều tính năng ưu việt, tuy nhiên do mới được phát triển tại Việt Nam và có những yêu cầu đặc thù về kỹ thuật, nên có nhiều hạn chế trong việc sản xuất và sử dụng. Một số nhà máy do hiểu biết về các tính năng kỹ thuật của sản phẩm chưa đầy đủ nên công tác bảo quản sản phẩm khi lưu kho và vận chuyển chưa đúng đã ảnh hưởng đế chất lượng sản phẩm khi đưa vào công trình.

Các nhà máy sản xuất bê tông nhẹ ra đời vào lúc kinh tế nước ta đang gặp khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường bất động sản trầm lắng, chi phí tài chính lớn, do đó sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho nhiều dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ. Tình trạng nay cũng đang dần được khắc phục. Về nguyên liệu: Hiện nay mới có 2 cơ sở sản xuất vôi công nghiệp ở TP. Hải Phòng và tỉnh Thanh Hóa, còn chủ yếu sản xuất theo công nghệ thủ công, chất lượng vôi chưa đáp ứng yêu cầu cho sản xuất bê tông khí. Các cơ sở ở miền Nam còn gặp khó khăn trong việc cung ứng vôi cho sản xuất do nguồn vôi cung ứng xa (từ miền Bắc vận chuyển vào).

Đối với gạch xi măng cốt liệu (block bê tông): Nhiều hộ cá thể và doanh nghiệp không quan tâm đến tiêu chuẩn chất lượng gạch xi măng cốt liệu, đầu tư thiết bị cũng như sản xuất ra sản phẩm chưa đảm bảo kỹ thuật.  Sản phẩm không đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn tiêu thụ ra thị trường, gây tác động tiêu cực trong dư luận về VLXKN nói chung.

Vật liệu xây, trong đó có VLXKN là chủng loại phải tuân thủ theo Quy chuẩn 16:2014/BXD. Nghĩa là ngoài việc sản xuất đạt tiêu chuẩn, chủ cơ sở sản xuất phải làm thủ tục công bố hợp quy cho sản phẩm. Như số liệu thống kê đã nêu ở trên, hiện nay đang có hàng ngàn cơ sở nhỏ lẻ sản xuất gạch xi măng cốt liệu (blok bê tông). Chúng ta không cấm những cơ sở nhỏ lẻ (công suất dưới 7 triệu viên QTC/năm), tuy nhiên chất lượng sản phẩm gạch blok bê tông từ các cơ sở nhỏ lẻ này phần lớn khó đạt tất cả các tiêu chí quy định trong tiêu chuẩn TCVN 6477:2011, đặc biệt là chỉ số hút ẩm. Vì vậy việc sản xuất gạch blok bê tông bằng các dây chuyền nhỏ lẻ không được khuyến khích và đến một thời điểm nhất định chắc chắn phải dừng sản xuất.

Về các chính sách ưu đãi đầu tư: Nhiều doanh nghiệp sản xuất VLXKN chưa được hưởng các ưu đãi theo quy định tại Quyết định 567 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ. Nhiều doanh nghiệp đang sản xuất khi mở rộng đầu tư sản xuất VLXKN lại không được hưởng các chính sách ưu đãi. Bộ Khoa học và Công nghệ chưa có hướng dẫn sử dụng Quỹ chuyển giao công nghệ như quy định tại Quyết định 567, nên các doanh nghiệp chưa được hưởng ưu đãi.

Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến Chương trình, hoặc chưa có giải pháp cụ thể hữu hiệu nhằm tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung. Có địa phương sẵn có nguồn nguyên liệu để sản xuất gạch xi măng cốt liệu và đã có nhà đầu tư sản xuất, tuy vậy đến thời điểm hiện tại UBND tỉnh vẫn có văn bản xin lùi thời gian thực hiện Thông tư 09; Có tỉnh khi chưa xác định rõ nguyên nhân gây ra sự cố nứt tường khi xây bằng VLXKN, UBND tỉnh đã chỉ đạo cho thay đổi VLXKN bằng vật liệu nung.

Cần giải pháp đồng bộ để phát triển

Vật liệu xây không nung thay thế gạch nung là định hướng đúng, phù hợp điều kiện Việt Nam và xu hướng phát triển bền vững của thế giới, tuy nhiên cũng cần một chương trình và lộ trình cụ thể vì liên quan trực tiếp đến đời sống của nhiều bộ phận người dân nông thôn, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Theo Bộ Xây dựng, để phát triển VLXKN cần có những nhóm giải pháp đồng bộ. Như vậy sẽ có 3 nhóm giải pháp, gồm giải pháp về cơ chế chính sách, về khoa học công nghệ và về thông tin, tuyên truyền. Trong đó, các dự án chế tạo thiết bị sản xuất VLXKN nhẹ và sản xuất gạch xi – măng – cốt liệu công suất từ 7 triệu viên quy tiêu chuẩn/năm trở lên, ngoài các chính sách ưu đãi về thuế nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi và hỗ trợ khác theo quy định hiện hành, còn được hưởng ưu đãi như đối với các dự án thuộc Chương trình Cơ khí trọng điểm.

Thứ nhất, về cơ chế chính sách, cần có những ưu đãi cụ thể, lâu dài về vốn (riêng nhu cầu vốn đầu tư phát triển sản xuất VLXKN của cả nước đến năm 2020 khoảng 5.200 đến 6.500 tỷ đồng), thuế, tiền thuê đất đối với các nhà sản xuất và từng loại VLXKN. Chẳng hạn ở Trung Quốc, các doanh nghiệp sản xuất VLXKN được miễn thuế suất VAT cho sản xuất gạch bê-tông nhẹ. Ðồng thời có chính sách quản lý chặt chẽ sản xuất gạch đất sét nung, hạn chế tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp làm nguyên liệu sản xuất gạch đất sét nung. Ngoài ra, cần ban hành đồng bộ, chi tiết các chính sách ưu đãi sử dụng phế thải công nghiệp sản xuất VLXKN và bắt buộc sử dụng vật liệu mới vào các công trình xây dựng theo các tiêu chí cụ thể.

Thứ hai, từng bước hoàn thiện các giải pháp về khoa học kỹ thuật trong điều kiện Việt Nam, xây dựng, công bố và ban hành đầy đủ tiêu chuẩn liên quan đến thiết kế, thi công, nghiệm thu… các công trình sử dụng vật liệu không nung. Hiện nay, nước ta cần thêm các tài liệu chuyên nghiệp và mang tính chuyên sâu về hướng dẫn thiết kế, thi công, định mức tiêu hao cho một đơn vị khối lượng xây dựng sử dụng vật liệu không nung.

Thứ ba, công tác tuyên truyền về vấn đề phát triển vật liệu không nung đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuyên truyền để các nhà quản lý chính quyền, đặc biệt là chính quyền đô thị, các nhà tư vấn, các chủ đầu tư, các doanh nghiệp xây dựng và mọi người dânkhi có liên quan đến xây dựng cần được phổ biến ưu điểm và ưu đãi đối với sản xuất và sử dụng VLXKN, để từng bước thay đổi thói quen sử dụng gạch đất sét nung vẫn tồn tại trong quá trình xây dựng tại Việt Nam. Đồng thời thấy được những tác động tiêu cực của việc sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung không theo quy hoạch, để tập trung mọi năng lực phát triển sản xuất và sử dụng gạch xây không nung, góp phần phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng nước ta hiện đại, bền vững.

Sử dụng vật liệu gạch xây không nung thay thế gạch nung truyền thống là xu thế hiện đại và tất yếu trong ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoài việc hạn chế sử dụng khoáng sản, hạn chế hủy hoại đất đai, hạn chế phát thải ra môi trường; sản xuất VLXKN còn sử dụng được tro xỉ, bã vôi thạch cao là phế thải từ các nhà máy nhiệt điện chạy than, nhà máy hóa chất phân bón với hàng chục triệu tấn mỗi năm. Có thể nói, công nghệ sản xuất vật liệu gạch không nung là công nghệ sạch và tiên tiến, tuy nhiên cần có chủ trương và các giải pháp đồng bộ trong việc thực hiện.

Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam

Số lượt xem: 5456, cập nhật lần cuối: 16/12/2015 23:49

Các tin khác:
Đang online:

Tổng truy cập: 524.318

Đối tác IBST
Đối tác Viện Vật liệu xây dựng

CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ CAO CƯỜNG - PHÒNG KINH DOANH

Tel:  0906.262.100  Mr. Nguyễn Ngọc Tuấn
Kho sản phẩm tại Hà Nội: KCN Vĩnh Hưng, phường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, Việt Nam

Nhà máy sx vữa khô trộn sẵn - keo ốp lát | Nhà máy sx gạch nhẹ chưng áp AAC | Nhà máy tuyển tro bay

Địa chỉ nhà máy: Km 28+100m, quốc lộ 18, phường Phả Lại, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Việt Nam
Website:  www.vuakho.vn, www.facebook.com/vuakhotronsan

 

 


magbo system